Trao đổi về Chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi Ngày 4 / 2 / 2009 Bộ GD&ĐT đưa ra Dự thảo Thông tư về việc Ban hành Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi (CPTT), lấy ý kiến góp ý của xã hội. CPTT đã nhận được sự quan tâm của nhiều tổ chức và cá nhân. Nhìn chung hầu hết các ý kiến đều cho rằng việc xây dựng và ban hành CPTT là cần thiết và sẽ góp phần đảm bảo chất lượng của bậc học. Tuy nhiên có một số ý kiến băn khoăn về cơ sở khoa học và tính thực tiễn của CPTT. Để rộng đường dư luận và giúp cho công chúng hiểu rõ hơn về CPTT, chúng tôi, nhóm tác giả biên soạn xin được trao đổi một số thông tin về căn cứ khoa học của việc xây dựng và sử dụng CPTT. 1. Căn cứ xây dựng CPTT 1. 1.Về căn cứ pháp lý Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới XHCN Việt Nam: 1.2. Căn cứ khoa học Căn cứ vào việc xem xét một số bộ tiêu chí và công cụ đánh giá sự phát triển của trẻ, một số văn bản về GDMN thời kỳ đổi mới, nghiên cứu cơ sở khoa học liên quan đến GDMN, đặc biệt là mục tiêu giáo dục trẻ MN hiện nay ở Việt Nam có thể xây dựng hệ thống các chỉ số cụ thể về mức độ phát triển của trẻ phù hợp với mục tiêu giáo dục ở từng độ tuổi. CPTT bao gồm 4 lĩnh vực chính. Việc chia 4 lĩnh vực xuất phát từ những giá trị mà chúng ta coi trọng và những điều mà chúng ta mong muốn trẻ đạt được. Mặc dù được thể hiện tách biệt với nhau trong CPTT, nhưng trong thực tế, 4 lĩnh vực phát triển của trẻ liên quan chặt chẽ với nhau. Sự phát triển ở lĩnh vực này ảnh hưởng và phụ thuộc vào sự phát triển ở những lĩnh vực khác và không có lĩnh vực nào quan trọng hơn lĩnh vực nào. Bốn lĩnh vực của CPTT là: Xác định hệ thống chỉ số phát triển của trẻ 5 tuổi theo các lĩnh vực phát triển là việc vô cùng quan trọng và cần thiết đòi hỏi một sự nghiên cứu công phu và khoa học. Trong việc nghiên cứu quá trình phát triển của trẻ, các nhà tâm lý học và giáo dục học đã đưa ra nhiều học thuyết khác nhau. Trong số những học thuyết về sự phát triển của trẻ, thuyết nhận thức của Piaget, thuyết học tập của Vygotsky và Bruner và thuyết xử lý thông tin là những học thuyết có ảnh hưởng lớn nhất đến vấn đề nhận thức về sự phát triển của trẻ. CPTT được xây dựng dựa trên quan điểm của các học thuyết này, đặc biệt là quan điểm về "vùng phát triển gần nhất" của Vygotsky. Vygotsky đề cao vai trò của dạy học. Ông cho rằng sự phát triển nhận thức của trẻ diễn ra trong quá trình lĩnh hội sản phẩm văn hóa của loài người bằng con đường giao tiếp với những người xung quanh. Vùng phát triển gần nhất là khoảng cách giữa khả năng hiện tại của cá nhân đứa trẻ và khả năng phát triển mà đứa trẻ có thể đạt tới nếu có sự giúp đỡ của người khác. Các tài liệu tham khảo về sự phát triển của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo ở Việt Nam đã rất được quan tâm khảo cứu, thừa kế và vận dụng trong quá trình xây dựng CPTT mặc dù số lượng các tài liệu này còn hạn chế. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu phổ biến trong 10 năm gần đây như: Nghiên cứu đặc điểm nhân cách của trẻ em mẫu giáo 5 - 6 tuổi (PGS TS.Nguyễn Thạc, 2001); Bộ trắc nghiệm đo lường mức độ sẵn sàng đi học của trẻ 6 tuổi vào lớp 1 (LATS. Nguyễn Thị Hồng Nga, 1997); Xây dựng bộ công cụ đánh giá chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non trọng điểm khối nhà trẻ và khối mẫu giáo (TS. Tạ Thị Ngọc Thanh và cộng sự - Viện KHGD, đề tài NCKH cấp Bộ 1999); Đặc điểm nhận thức các chuẩn mực đạo đức, quy tắc hành vi của trẻ 5- 6 tuổi (Ths. Nguyễn Thị Xuyên - đề tài NCKH cấp Bộ 2007); Một số biện pháp giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ 3-4 tuổi ở nông thôn không đến trường mầm non ( LATS - Phan Thị Ngọc Anh - 2006); Nghiên cứu những điều kiện tâm lý nhằm phát triển tính độc lập cuả trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động vui chơi (TS. Nguyễn Thị Mỹ Trinh -2003); Một số biện pháp GD hành vi có văn hóa cho trẻ 5 - 6 tuổi (LA TS - Hoàng Thị Phương ; Xung đột tâm lý của trẻ MG trong hoạt động vui chơi (LATS, Đinh Thị Kim Thoa, 2002) Chuẩn bị về mặt xã hội cho trẻ MG lớn sẵn sàng đi học lớp 1 ở Đồng bằng Sông Cửu Long (LATS, Đặng Thị Phương Phi - 2007); Nghiên cứu đặc điểm sự phát triển trí tuệ của trẻ MG 5 - 6 tuổi (PGS TS. Nguyễn Thạc - 1998); Nghiên cứu mức độ trí tuệ của trẻ MG 5-6 tuổi (LATS- Huỳnh Văn Sơn - 2004); Sự hiểu biết của trẻ 5 - 6 tuổi về nghề nghiệp của người lớn (Ths. Nguyễn Thị Vân Anh - 2000); Nghiên cứu hành vi của trẻ MG 3 - 6 tuổi có phong cách nhận thức khác nhau trong hoạt động vui chơi (TS. Trần Thị Nga - 2008); Đặc điểm phát triển thể lực của trẻ em dưới 6 tuổi (TS, Hàn Nguyệt Kim Chi và cộng sự - 1996 , Dự án điều tra cơ bản do Trường đại học Y khoa chủ trì); Một số đặc điểm tâm lí trong hoạt động ngôn ngữ của trẻ MG 5-6 tuổi qua hình thức kể chuyện (LATS - Hồ Lam Hồng - 2002; .... Kết quả nghiên cứu của các công trình này là nguồn tài liệu tham khảo cho việc xây dựng CPTT. 1.3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn: - Nghiên cứu đánh giá tính xác thực về nội dung của CPTT nhằm đảm bảo rằng nội dung của các chuẩn, các chỉ số phản ánh được những mong muốn của quốc gia về những gì trẻ 5 tuổi Việt Nam biết và có thể làm. Phạm vi nghiên cứu được tiến hành thông qua việc lấy ý kiến, thảo luận nhóm, điều tra bằng phiếu hỏi với 32 chuyên gia về tâm sinh lý và giáo dục trẻ mầm non, 53 cán bộ quản lý mầm non các cấp đã có có kinh nghiệm làm việc với trẻ 5 tuổi từ 3 năm trở lên, 280 giáo viên mầm non có kinh nghiệm làm việc với trẻ 5 tuổi từ 3 năm trở lên và 200 phụ huynh có con 5 tuổi; xin ý kiến của Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam và Hội Tâm lý - Giáo dục Việt Nam. (Đồng thời CPTT nhận được sự góp ý của các chuyên gia hướng dẫn xây dựng - GS TS. Lynn Kagan - Trường đại học tổng hợp Columbia, TS.Pia Britto - Trường Đại học tổng hợp Yale và TS. Nirmala Rao - Trường Đại học tổng hợp Hồng Kông) - Nghiên cứu đánh giá tính xác thực về độ tuổi nhằm xác định và lựa chọn ra những chỉ số phù hợp với sự phát triển của phần lớn trẻ 5 tuổi Việt Nam. Có nghĩa là xác định xem các chỉ số có quá dễ, quá khó hay phù hợp với đa số trẻ trong độ tuổi mà CPTT đề cập. Đánh giá tính xác thực về độ tuổi được thực hiện thông qua khảo sát trên 721 trẻ 5 tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên ở 7 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng là : Hà Nội, Hải Dương, Lào Cai, Thanh Hóa, Gia Lai, tp Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Trong 721 trẻ có 369 trẻ nông thôn, 58 trẻ dân tộc thiểu số và 294 trẻ thành phố. Để có thể đánh giá tính xác thực về độ tuổi chúng tôi đã xây dựng bộ công cụ đo bao gồm: 55 bài tập đo, 12 cuộc đàm thoại, 15 nội dung quan sát và 24 nội dung phỏng vấn GVMN và cha mẹ. Việc đánh giá tính xác thực về độ tuổi được thực hiện với từng cá nhân trẻ. 2. Quan điểm sử dụng CPTT 2. Cải thiện công tác đào tạo giáo viên. CPTT có thể được dùng để định hướng việc phát triển nội dung chương trình đào tạo giáo viên thông qua việc cung cấp thông tin về những điều mà các giáo viên phải biết và có thể thực hiện trong vai trò của mình. Cũng có thể dựa vào CPTT để xây dựng các tài liệu về các lĩnh vực phát triển của trẻ. Bên cạnh đó CPTT còn được sử dụng để xây dựng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non (những điều giáo viên cần phải biết và phải làm được) và làm cơ sở để hoàn chỉnh chương trình đào tạo. 3. Tăng cường cải thiện kỹ năng và hành vi của các bậc phụ huynh. CPTT nguồn tư liệu cung cấp thông tin cho các bậc phụ huynh và những người chăm sóc trẻ để họ hiểu và có những mong đợi hợp lý so với khả năng của trẻ. Từ đó giúp họ có cách hỗ trợ và tạo ra nhiều cơ hội học tập cho trẻ hơn. CPTT cũng có thể dùng làm cơ sở phát triển tài liệu cho các bậc phụ huynh tham khảo trong quá trình CSGD trẻ. CPTT không bao gồm những gì? CPTT: Chính vì vậy, các nguyên tắc liên quan đến việc sử dụng CPTT bao gồm : Lần đầu tiên Việt Nam xây dựng CPTT. Đánh dấu một bước tiến của GDMN Việt Nam trong việc tiếp cận với các thành tựu khoa học trên thế giới, nhưng cũng là thách thức vô cùng lớn đối với ngành học. Dù có tâm huyết và nỗ lực đến bao nhiêu thì sản phẩm đầu tiên chưa thể hoàn hảo. Nhóm soạn thảo rất trân trọng các ý kiến phản biện của xã hội. Tuy nhiên để CPTT được xây dựng tốt nhất thì ngoài các ý kiến bình luận nhóm soạn thảo mong nhận được thêm những thông tin khoa học mới nhất về sự phát triển tâm sinh lý trẻ 5 tuổi của Việt Nam (nếu có). Cuối cùng cũng cần phải nhấn mạnh lại rằng trẻ không phải tự nhiên đạt được CPTT một cách dễ dàng. Sự phát triển của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống và tác động giáo dục của những người xung quanh trẻ. Do đó nếu CPTT được xây dựng khoa học mà trẻ chưa đạt tới thì người lớn không vì thế mà lo lắng, trái lại cần tìm cách tác động giáo dục phù hợp giúp trẻ đạt được những chuẩn mong đợi. Hy vọng rằng với sự chung tay của toàn xã hội, trẻ em Việt Nam sẽ nhận được những điều kiện tốt nhất để phát triển như trẻ em các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. |